câu hỏi về văn hóa ẩm thực việt nam
Phần III. Những món ăn thức uống của Việt nam. PHẦN I NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ẨM THỰC VIỆT NAM I. Tổng quát về văn hóa ẩm thực Văn hoá ẩm thực: là cách ăn, kiểu ăn, món ăn đặc trưng của từng dân tộc, từng địa phương mà qua đó ta biết được trình độ
Văn hóa ẩm thực Việt Nam luôn là một đề tài thú vị. Ẩm thực của người Việt không chỉ là những món ăn, công thức chế biến mà đây là một nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Với một đất nước có chiều dài lịch sử lâu đời và vị trí địa lý khác biệt, thì mỗi một vùng miền trên dải
Ẩm thực Việt Nam là một yếu tố quan trọng của văn hóa Việt. Ẩm thực Việt Nam hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày và qua đó cũng thể hiện văn hóa đặc trưng của
Đặc trưng văn hóa ẩm thực người miền Nam. Nói đến vùng đất Nam Bộ ta nghĩ ngay đến sự trù phú. Đúng vậy thiên nhiên nơi đã ưu ái ban tặng cho con người rất nhiều những đặc sản tự nhiên. Chính vì vậy ẩm thực của người dân Nam Bộ cũng gắn liền với các nguyên
Nếu tài liệu Văn hóa ẩm thực Việt Nam sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội dung. Hệ thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các
Quel Est Le Site De Rencontre Le Plus Fiable. Uploaded byKhánh Vy 100% found this document useful 1 vote4K views6 pagesCopyright© © All Rights ReservedShare this documentDid you find this document useful?Is this content inappropriate?Report this Document100% found this document useful 1 vote4K views6 pagescâu hỏi về ẩm thực miền Bắc- NamUploaded byKhánh Vy Full descriptionJump to Page You are on page 1of 6Search inside document You're Reading a Free Preview Pages 4 to 5 are not shown in this preview. Buy the Full Version Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel anytime.
ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT NIỆMTheo từ điển tiếng Việt, “ẩm thực” chính là “ăn và uống”. Ăn và uống là nhu cầuchung của nhân loại, không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến…, nhưngmỗi cộng đồng dân tộc do sự khác biệt về hoàn cảnh địa lý, môi trường sinh thái, tínngưỡng, truyền thống lịch sử…nên đã có những thức ăn, đồ uống khác nhau, nhữngquan niệm về ăn uống khác nhau…từ đã hình thành những tập quán, phong tục về ănuống khác nhau. Như TS. Trần Ngọc Thêm đã từng nói “Ăn uống là văn hoá, chínhxác hơn là văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên của con người”.* Khái niệm văn hoá ẩm thực là một khái niệm phức tạp và mới mẻ. Chúng ta cóthể hiểu văn hoá ẩm thực như sau Văn hoá ẩm thực là những tập quán và khẩu vị ănuống của con người; những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục kiênkỵ trong ăn uống; những phương thức chế biến, bày biện món ăn thể hiện giá trị nghệtthuật, thẩm mĩ trong các món ăn; cách thưỏng thức món ăn… Nói như vậy thì từ xaxưa, người Việt Nam đã chú ý tới văn hoá ẩm thực. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”đâu chỉ là vật chất mà còn là ứng xử với gia đình - xã hội. Con người không chỉ biết“Ăn no mặc ấm” mà còn biết “ăn ngon mặc đẹp”. Trong ba cái thú “Ăn – Chơi - Mặc”thì cái ăn được đặc lên hàng đầu. Ăn trở thành một nét văn hoá, và từ lâu người ViệtNam đã biết giữ gìn những nột văn hoá ẩm thực của dân tộc thực, tức ăn uống thể hiện lịch sử của một quốc gia, của nền văn hoá của quốcgia đó. Các món ăn qua từng giai đoạn sẽ nói lên được cuộc sống, con người của giaiđoạn đó và của vùng đất – nơi đã sản sinh ra món ăn mà không đâu có thể làm giốnghệt được. Văn hoá dân gian Việt Nam là một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc,trong đó văn hoá ẩm thực là một nét đặc trưng. Con người đã dần phát triển việc ănuống lên thành một lĩnh vực rộng rãi được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu về nghệthuật ăn uống của người Việt nói chung và việc ăn uống của từng miền nói riêng manglại nhiều điều lí thú, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mọi SỞ HÌNH THÀNH Đặc điểm lịch sửLịch sử dân tộc Việt Nam có trên 4000 năm. Từ thời Kinh Dương Vương vàHồng Bàng kéo dài khoảng 2551 năm thì lối ăn uống và cách ăn như thế nào không cósử sách nào ghi lại. Tuy nhiên qua những truyền thuyết lưu truyền từ ngày xưa trongdân gian có thể thấy rằng, một số món ăn Việt Nam đã có nguồn gốc từ thời xa xưacủa lịch sử. Ngày nay các chứng tích khảo cổ học đã phần nào làm sáng tỏ các huyềnthoại truyền thuyết về nền văn minh Văn Lang Âu Lạc. Người Việt cổ đã dùng càyđồng do trâu bò kéo, canh tác ruộng đất, làm thủy lợi, làm vườn, trồng rau quả, chănnuôi và đánh bắt cá ở sông hồ, ven biển, ăn cơm nếp, gói bánh dày, bánh chưng. Biểuhiện nổi bật nhất là sự tích chiếc bánh dày và bánh chưng có từ thời vua Hùng thứ thứ bánh này cho đến nay vẫn được quảng đại quần chúng ưa thích. Bánh chưnglà món ăn dân tộc, là yếu tố tạo nên hương vị ngày Tết Nguyên đán, ngày Tết truyềnthống của dân tộc, mà theo tập quán là phải “Thịt mỡ, dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu,1tràng pháo, bánh chưng xanh”. Căn cứ vào truyền thuyết về bánh chưng, bánh dàykhông mang tính chất hoang đường này, thì hai món bánh này đã có khoảng 4000năm, vào thời dân tộc Việt Nam bắt đầu dựng nước. Trải qua bao nhiêu thử thách vàbiến cố lịch sử của dân tộc, sự tồn tại của bánh dày và bánh chưng ở một mức độ nàođó cũng nói lên sức mạnh sinh tồn của một dân tộc, nói lên tính chất truyền thống củakĩ thuật nấu ăn Việt Nam được bảo tồn và gìn giữ từ bao đời nay. Chính tính truyềnthống này đã góp phần tạo nên phong cách độc đáo và bản sắc trong ăn uống và cáchchế biến món ăn Việt Nam. Đặc điểm về địa lí và tự nhiênNước ta là một nước nông nghiệp nhiệt đới, do đó cây trồng xanh tốt bốn mùa,gồm đủ các loại rau, củ, quả. Bờ biển dài có nhiều sông, lạch, ngòi, là nguồn cung cấpthủy sản phong phú đa dạng, đủ các chủng loại. Khí hậu nước ta không những thuậnlợi cho việc phát triển cây trồng, trong đó cây lúa là lương thực chính, mà còn thuậnlợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm mà chủ yếu là gà, vịt, lợn, trâu, bò,dê, thỏ,... được phát triển tùy theo từng vùng. Việt Nam có chung nguồn gốc lịch sử,văn hoá, địa lí, kinh tế, vì vậy dù chia làm ba miền Bắc, Trung, Nam nhưng trong chếbiến món ăn vẫn có những tương đồng mang tính thống nhất. Là một nước nôngnghiệp, chủ yếu sản xuất lúa gạo, nên cả ba miền đều lấy cơm làm thức ăn nào cũng thích ăn những món ăn có nước canh, các món ăn đều được nêmbằng muối, nước mắm, dùng các loại rau thơm làm tăng mùi vị. Bên cạnh đó, mỗimiền lại có phương pháp chế biến riêng tạo nên sự phong phú cho món ăn, trở thànhnhững ưu điểm nổi bật trong văn hoá ẩm thực Việt Nam. Việt Nam có điều kiện khíhậu đa dạng, vì vậy các nguồn thực phẩm trong tự nhiên hết sức phong phú. Miền Bắccó khí hậu bốn mùa, miền Trung nắng nóng khắc nghiệt, miền Nam là một vùng đấttốt, sản vật dồi dào, nguồn lương thực, thực phẩm sung túc. Nơi đây có rất nhiềunguồn thực phẩm, từ nông sản cho đến hải sản, và còn là vựa lúa lớn nhất nước. Do đónguồn thực phẩm để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú. Nhưng trước hết taphải nói đến nguồn lương thực chính là gạo. Vì người Việt sử dụng gạo để nấu cơmtrong tất cả các bữa ăn cũng như trong các buổi giỗ, tiệc. Do vị trí địa lí của mình, ViệtNam có một nền văn hoá, chính trị khá đặc biệt. Vị thế địa lý tạo điều kiện cho ViệtNam đón nhận nhiều luồng giao lưu văn hoá khác nhau. Mặt khác, thiên nhiên ViệtNam là điểm xuất phát của văn hoá Việt Nam. Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi tựnhiên. Thiên nhiên đặt ra trước con người những thử thách, những thành tố, và vănhoá là sản phẩm của con người, là sự phản ứng, sự trả lời của con người trước nhữngthách đố của tự nhiên. Trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của văn hoá, takhông thể không thừa nhận sự tác động của điều kiện tự nhiên và xã hội. Ở nước ta domỗi vùng có những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau nên sự phát triển của vănhoá ở mỗi vùng cũng khác mỗi vùng của đất nước lại có một tập quán ăn uống riêng, tạo ra một nét đặcsắc riêng biệt không lẫn với nơi khác. Từ Bắc, Trung, Nam, mỗi vùng miền, món ănđều có một phong vị riêng, đặc trưng của miền đất mà ở nơi đó món ăn được hình2thành và hoàn thiện. Ở miền Bắc, do lịch sử đất nước phải chịu sự đô hộ của TrungHoa trong khoảng thời gian dài, vì vậy nền văn hoá, quan niệm sống ở đây cũng phầnnào chịu ảnh hưởng. Trong giai đoạn hiện nay thì việc thay đổi, biến thiên về quanniệm, văn hoá là điều tất yếu nhằm có sự hòa nhập cần thiết với thế giới. Sự thay đổicũng như việc tiếp thu cái hay của các nước trên thế giới là cần thiết, tuy nhiên ngườiViệt vẫn gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, kể cả trong ăn uống và phát triển nóngày càng cao hơn để cho những người con xa xứ hay những thực khách nước ngoàikhi ăn những món ăn mang đậm chất Việt Nam cảm thấy như đang được trở về vớiquê cha đất tổ, với tuổi ấu thơ bên người thân, bạn LOẠIHệ thống các món ăn Việt Nam được phân thành 4 loại Món ăn thuần Việt những món ăn này mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, biếncố lịch sử vẫn không diễn tả được và mang đậm nét Việt Nam. Món ăn ảnh hưởng ẩm thực Trung Hoa với cách chế biến có sử dựng dầu,mỡ và các gia vị thuốc Bắc trong món ăn. Món ăn ảnh hưởng của ẩm thực Pháp sử dụng nhiều loại sốt cà chua ngọt,sốt chua cay. Món ăn ảnh hưởng của ẩm thực Ấn Độ và các nước Đông Nam Á mangđậm dấu ấn của các quốc hia có nguồn gốc từ Ấn Độ như hồ tiêu, quế,… ĐIỂM – cho ví dụViệt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chínhcác đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêngcủa ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó gópphần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụngrất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canhchua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá,cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơnnhư thịt chó, thịt dê, thịt rùa, thịt rắn, thịt ba ba... thường không phải là nguồn thịtchính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nàođó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật đượcchế biến từ các loại thực vật, không có nguồn thực phẩm từ động vật. Tuy nhiên, trongcộng đồng thì lại có rất ít người ăn chay trường, chỉ có các sư thầy trong các chùahoặc người bị bệnh nặng buộc phải ăn đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khácẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ănbổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầmnhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹcao độ như ẩm thực Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn3được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù khôngthực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật....Có 3 đặc điểmTính tổng hợp trong nguyên liệu, cách pha chế, các cách chế biếnTính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt trước hết thể hiện trongcách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn của người Việt đều là sản phẩm của sự phachế tổng hợp các loại rau với các loại gia vị, hoa quả, cá tôm…Dù là bình dân như xôi ngô, ốc nấu, phở… cầu kỳ như bánh chưng, nem ránhay đơn giản như rau sống, nước chấm…tất cả đều được tạo nên từ rất nhiều nguyênliệu. Chúng tổng hợp lại với nhau, bổ sung lẫn nhau để cho ta những món ăn có đủngũ chất bột-nước-khoáng-đạm-béo; nó không những có giá trị dinh dưỡng cao màcòn tạo nên một hương vị vừa độc đáo ngon miệng, vừa nồng nàn khó quên của đủngũ vị chua-cay-ngọt-mặn-đắng, lại vừa có cái đẹp hài hoà của đủ ngũ sắc trắngxanh-vàng-đỏ-đen. Chỉ một bát nước chấm người nội trợ có thể pha chế rất kỳ côngsao cho đủ vị cái mặn đậm đà của nước mắm; cái cay của gừng, ớt, hạt tiêu, cái chuacủa chanh, dấm; cái ngọt của đường; cái mùi vị đặc biệt của tỏiTính tổng hợp được thể hiện ngay trong cách ăn. Mâm cơm của người Việt dọnra bao giờ cũng có đồng thời nhiều món cơm, canh, rau, thịt, xào, nấu, luộc, kho…Suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp các món ăn. Bất cứ bát cơm nào cũng đã làkết quả tổng hợp rồi trong một miếng ăn có thể đã có đủ cả cơm-canh-rau-thịt. Điềunày khác hẳn cách ăn lần lượt đưa ra từng món theo lối phân tích của người phươngTây. Tính tổng hợp còn thể hiện trong tục ăn trầu cau và hút thuốc lào của người miếng trầu, hay điếu thuốc cũng quyện đủ vị cay, đắng, mặn nồng của ăn tổng hợp của người Việt Nam tác động vào đủ mọi giác quan mũingửi mùi thơm ngào ngạt từ những món ăn vừa bưng lên, mắt nhìn màu sắc hài hoàcủa bàn ăn, lưỡi nếm vị ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn ngườiViệt khi uống trà ngon thích chép miệng; uống rượu ngon thích “khà” lên mấy tiếngvà đôi khi nếu được mó tay vào cầm thức ăn mà đưa lên miệng xé như ăn thịt gàlược thì lại thấy ngon!Cái ngon của bữa ăn người Việt Nam là tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố cóthức ăn ngon mà không hợp thời tiết thì không ngon; hợp thời tiết mà không có chỗ ănngon thì không ngon; có chỗ ăn ngon mà không có bạn bè tâm giao cùng ăn thì khôngngon; có bạn bè tâm giao mà không khí bữa ăn không vui vẻ thì cũng không ngon…4Tính mực thướcnét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểuhiện của khuynh hướng quân Bình trong âm dương nó đòi hỏi phải "ăn chậm nhai kỹ"khi ăn cơm khách một mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủnhà, mặt khác phải chừa ra một ít trong các dĩa đồ ăn để tỏ ra mình không chết đóikhông tham ăn, tục ngữ có câu "Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ"tính cộng đồng và một thước trong bữa ăn thể hiện qua nồi cơm và tráng nước mắmTính biện chứng, linh hoạt linh hoạt trong cách ăn,dụng cụ ăn-tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăntính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn truyền thốngsử dụng dụng cụ là đôi đũa đó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chimnhặt hạt xuất phát từ những thứ không thể dùng tay bốc hoặc mò tay vào được cơm,cá, nước mắm.. đôi đũa của người Việt Nam thực hiện một cách cực kì linh hoạt hàngloạt chức năng khác nhau gắp, và, xé, xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét, và... nối cho cánhtay dài ra để gắp thức ăn xa! Người Việt Nam chế ra rất nhiều loại đũa đôi đũa trebình dàn vừa dẻo vừa dai, gặp đồ ăn nóng đến đâu cũng không hỏng; đũa mun càngdùng càng bóng; đũa sơn mài, đũa khảm trai như một tác phẩm nghệ thuật thu nhỏ;đũa ngọc quý và mát; đũa ngà quý, mát và làm thức ăn mau nguội; đũa kim giao mộtloại gỗ quý và hiếm hiện chỉ còn ở rừng Cúc Phương và đũa bạc có khảnăng pháthiện được chất độc trong thức ăn..Biểu hiện không kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn làchỗ người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương bao gồm 3mặt liên quan mật thiết với nhau là âm dương của thức ăn,sự quân Bình âm dươngtrong cơ thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiênđể tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thứcăn theo 5 mức âm nhưng ứng với ngũ hành hàn lạnh nhiệt nóng ôn ẩm lươngmát Bình trung tínhđể tạo nên sự quân Bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món dễ chếbiến có tính đến sự quân Bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn nhưnhững vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân Bình âm dương trong cơ thể mọi bệnh tậtđều do mất quân Bình âm dương Vì vậy mọi người ốm do quá ân cần ăn đồ Dương vàngược lại ốm đau quá Dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã mấtđể đảm bảo quân Bình âm dương giữa con người với môi trường người Việt cótập quán ăn uống theo vùng khí hậu theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự5nhiên để phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứnggiữa con người và môi trường thức ăn theo mùa hay mùa nào thức nấy- tính biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thờitiết phải đúng mùa và người Việt Nam sang ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giátrị chuối sau, cau trước, đầu chép, mép trôi, môi mè lườn trắm,.. thời điểm có giá trịcòn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa đang ở dạng âm dươngcân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu dinh dưỡng trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ongnon ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN NHẤT VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC VÙNGMIỀN NƠI MÌNH SINH SỐNG. VÍ DỤ MÓN ĂNĐồ ăn miền Trung được biết đến với vị cay nồng, với tất cả tính chất đặc sắc củanó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc vàmiền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tômchua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩmthực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địaphương không có nhiều sản vật mà ẩm thực hoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món,nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món
Câu 1 Anh chị hãy cho biết khuynh hướng ẩm thực của người Việt Nam hiện nay? Theo anh chị vì sao VN có khuynh hướng đó? Ẩm thực hay nói đơn giản hơn là ăn và uống vốn là chuyện hằng ngày, rất gần gũi và cũng rất đời thường. Nhưng ở mỗi thời đại khác nhau thì ăn uống lại được quan tâm với những mức độ khác nhau. Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã rất coi trong việc ăn uống, thế nên tục ngữ mới có câu “có thực mới vực được đạo”, “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”... Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao hơn, ẩm thực cũng nhờ vào đó mà trở nên hoàn thiện hơn. Vượt ra khỏi giới hạn “ăn no mặc ấm” để đạt đến “ăn ngon mặc đẹp”. Ẩm thực đã không còn đơn thuần là giá trị vật chất, mà xa hơn chính là yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà, duyên dáng và cốt hướng hiện nay của người Việt Nam chủ yếu là ăn uống sao cho bổ, rẻ, ngon mà vẫn đảm bảo vệ sinh, đảm bảo sức khỏe cho chính những thực phẩm bán ra trên thị trường không còn trong sạch, đồ bảo quản đều có sự can thiệp của hóa chất, khiến cho thức ăn bị ô nhiễm nặng nề, đó cũng là lý do gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho con người. Do vậy, ăn uống làm sao cho sạch, an toàn và ít ô nhiễm chính là một trong những xu hướng ẩm thực đang được ưa chuộng hiện nay. Có thể mỗi người mỗi suy nghĩ trả lời, có thể là chạy theo xu hướng XH, gấp gáp, nhanh….Câu 2 Anh chị hãy cho biết mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo tin ngưỡng và ẩm thực?Ai cũng biết rằng Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói Trời đánh còn tránh miếng ăn và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói “Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm…”. Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự động thái trong đời sống sinh hoạt cá nhân của mọi con người và còn là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng hào hiệp. Họ quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người ViệtCũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con người. Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày … Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý, và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác thuộc về văn Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại rau, đậu tương tuy trong cộng đồng thế tục ít người ăn chay trường, chỉ có các sư sãi trong chùa hoặc người bị bệnh buộc phải ăn thực Việt Nam còn đặc trưng với sự trung dùng trong cách phối trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ gia vị để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non; các gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển", như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm, tương, tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt .Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới món ăn Trung Hoa ăn bổ thân, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ăn Nhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản sắc trong thời hội ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng• Tính hoà đồng hay đa dạng• Tính ít mỡ.• Tính đậm đà hương vị• Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.• Tính ngon và lành• Tính dùng đũa.• Tính cộng đồng hay tính tập thể• Tính hiếu khách• Tính dọn thành 3 Anh chị hãy cho biết nét khác biệt cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồm cách chế biếndụng cụ giữa gia đình người Việt Nam và 1 gia đình người Phápgiả định ?Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong một bữa cơm của người Việt và người Pháp có sự khác biệt hoàn toàn về cách thức chế biến cũng như cách sắp xếp bàn ăn, cách ăn uống…Trong bữa ăn của người Việt, người đầu bếpchủ nhà phải luôn sắp xếp sao cho nguyên liệu vừa đủ với số lượng khách; và các dụng cụ nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt sạch sẽ. Nấu món ăn nào trước, món ăn nào sau phải hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui vẻ, hứng khởi. Khi dọn ăn luôn có lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì làm cho các món ăn ngon thêm bội bàn ăn của người Việt thức ăn đầy bàn, rất nhiều món được bày trên đĩa và trang trí rất đẹp mắt; mà quan trọng nhất đó là có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi. Các dụng cụ dùng trong bữa ăn của người Việt chủ yếu là đũa, bát, đĩa, thìa. Ăn uống rất lễ phép, con cái lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhất, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng, trước khi ăn phải mời người lớn tuổi và khách... người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà chúng ta kém đi lòng hào hiệp. Người Việt quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt ăn rất dân chủ, trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng mọi người có thể ăn những món mà họ thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của mỗi người. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của từng người, chứ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Còn khi đến nhà người Pháp, họ có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, một khẩu phần ăn riêng cho từng người trên đĩa và sử dụng bằng dao, thìa, nĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no họ cũng phải cố gắng ăn cho hết. Trên bàn ăn của người Pháp thường là hình vuông, các dụng cụ thường được dùng đó là bộ dao, nĩa và muỗng. Thức ăn được chia theo phần và thường được bày biện trên đĩa, ít được trang trí tỉ mỷ như người Việt. Trong khi ăn, trên bàn ăn của họ luôn có những ly rượu vang để khai vị, hoặc kết hợp trong lúc ăn để cho thức ăn được tiêu hóa dễ dàng hơn. Mọi người trong bữa ăn chỉ biết phần thức ăn của mình cho dù thiếu hay đủ, họ ăn uống rất khoa học nhưng không biết cách cân đối và kết hợp về mặt âm dương trong bữa ăn.
Câu hỏi và đáp án môn thi văn hóa ẩm thực Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây KB, 7 trang Câu 1 Anh chị hãy cho biết khuynh hướng ẩm thực của người Việt Nam hiện nay? Theo anh chị vì sao VN có khuynh hướng đó? Ẩm thực hay nói đơn giản hơn là ăn và uống vốn là chuyện hằng ngày, rất gần gũi và cũng rất đời thường. Nhưng ở mỗi thời đại khác nhau thì ăn uống lại được quan tâm với những mức độ khác nhau. Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã rất coi trong việc ăn uống, thế nên tục ngữ mới có câu “có thực mới vực được đạo”, “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”… Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao hơn, ẩm thực cũng nhờ vào đó mà trở nên hoàn thiện hơn. Vượt ra khỏi giới hạn “ăn no mặc ấm” để đạt đến “ăn ngon mặc đẹp”. Ẩm thực đã không còn đơn thuần là giá trị vật chất, mà xa hơn chính là yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà, duyên dáng và cốt hướng hiện nay của người Việt Nam chủ yếu là ăn uống sao cho bổ, rẻ, ngon mà vẫn đảm bảo vệ sinh, đảm bảo sức khỏe cho chính những thực phẩm bán ra trên thị trường không còn trong sạch, đồ bảo quản đều có sự can thiệp của hóa chất, khiến cho thức ăn bị ô nhiễm nặng nề, đó cũng là lý do gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho con người. Do vậy, ăn uống làm sao cho sạch, an toàn và ít ô nhiễm chính là một trong những xu hướng ẩm thực đang được ưa chuộng hiện nay. Có thể mỗi người mỗi suy nghĩ trả lời, có thể là chạy theo xu hướng XH, gấp gáp, nhanh….Câu 2 Anh chị hãy cho biết mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo tin ngưỡng và ẩm thực?Ai cũng biết rằng Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói Trời đánh còn tránh miếng ăn và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói “Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm…”. Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự động thái trong đời sống sinh hoạt cá nhân của mọi con người và còn là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng hào hiệp. Họ quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người ViệtCũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con người. Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày … Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý, và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác thuộc về văn Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại rau, đậu tương tuy trong cộng đồng thế tục ít người ăn chay trường, chỉ có các sư sãi trong chùa hoặc người bị bệnh buộc phải ăn thực Việt Nam còn đặc trưng với sự trung dùng trong cách phối trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ gia vị để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non; các gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý “âm dương phối triển”, như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm, tương, tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt .Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới món ăn Trung Hoa ăn bổ thân, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ăn Nhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản sắc trong thời hội ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng• Tính hoà đồng hay đa dạng• Tính ít mỡ.• Tính đậm đà hương vị• Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị. • Tính ngon và lành• Tính dùng đũa.• Tính cộng đồng hay tính tập thể• Tính hiếu khách• Tính dọn thành 3 Anh chị hãy cho biết nét khác biệt cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồm cách chế biếndụng cụ giữa gia đình người Việt Nam và 1 gia đình người Phápgiả định ?Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong một bữa cơm của người Việt và người Pháp có sự khác biệt hoàn toàn về cách thức chế biến cũng như cách sắp xếp bàn ăn, cách ăn uống…Trong bữa ăn của người Việt, người đầu bếpchủ nhà phải luôn sắp xếp sao cho nguyên liệu vừa đủ với số lượng khách; và các dụng cụ nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt sạch sẽ. Nấu món ăn nào trước, món ăn nào sau phải hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui vẻ, hứng khởi. Khi dọn ăn luôn có lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì làm cho các món ăn ngon thêm bội bàn ăn của người Việt thức ăn đầy bàn, rất nhiều món được bày trên đĩa và trang trí rất đẹp mắt; mà quan trọng nhất đó là có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi. Các dụng cụ dùng trong bữa ăn của người Việt chủ yếu là đũa, bát, đĩa, thìa. Ăn uống rất lễ phép, con cái lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhất, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng, trước khi ăn phải mời người lớn tuổi và khách… người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà chúng ta kém đi lòng hào hiệp. Người Việt quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt ăn rất dân chủ, trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng mọi người có thể ăn những món mà họ thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của mỗi người. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của từng người, chứ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Còn khi đến nhà người Pháp, họ có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, một khẩu phần ăn riêng cho từng người trên đĩa và sử dụng bằng dao, thìa, nĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no họ cũng phải cố gắng ăn cho hết. Trên bàn ăn của người Pháp thường là hình vuông, các dụng cụ thường được dùng đó là bộ dao, nĩa và muỗng. Thức ăn được chia theo phần và thường được bày biện trên đĩa, ít được trang trí tỉ mỷ như người Việt. Trong khi ăn, trên bàn ăn của họ luôn có những ly rượu vang để khai vị, hoặc kết hợp trong lúc ăn để cho thức ăn được tiêu hóa dễ dàng hơn. Mọi người trong bữa ăn chỉ biết phần thức ăn của mình cho dù thiếu hay đủ, họ ăn uống rất khoa học nhưng không biết cách cân đối và kết hợp về mặt âm dương trong bữa ăn. và tương quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “ Cóthực mới vực được đạo ”, đây là một đặc thù rất là biện chứng, coi đó làtiền đề để con người hoàn toàn có thể bước vào những nghành nghề dịch vụ hoạt động giải trí khác. Việc ăn làviệc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việcăn. Điều đó biểu lộ ở câu nói Trời đánh còn tránh miếng ăn và người Việtcũng đối xử với thánh thần trải qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thứcuống dùng trong dâng cúng thì món ăn chiếm vị trí quan trọng số một ; ngườitrần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúngtổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều đượcnấu nướng rất là cẩn trọng, chu đáo và tươm tất, bày biện sang chảnh vàthái độ tôn kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ănquan trọng như vậy mà người ta nói “ Mọi hành vi của người Việt Namđều lấy ăn làm đầu nhà hàng siêu thị, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, đánh cắp, ăn trộm … ”. Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự độngthái trong đời sống hoạt động và sinh hoạt cá thể của mọi con người và còn là một hìnhthức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làmmốc cho việc phân loại thời hạn và việc làm trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc nhà hàng siêu thị, đối vớingười Việt Nam, ẩm thực ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động giải trí đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, biểu lộ trong quanniệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dùđiều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không cho nên vì thế mà họ kém đilòng hào hiệp. Họ ý niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiềungười khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính làmột biểu lộ cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù khôngphân chia quý phái, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăncũng phản ánh, biểu lộ vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong mái ấm gia đình haytrong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ trợ, tiếp thức ăn cho mọi ngườithường là người phụ nữ, người nội tướng trong mái ấm gia đình người Việt. Và dù aicũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khiăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chuẩn bắt buộc với mỗi ngườiViệtCũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam bộc lộ sự cânbằng, hòa giải giữa âm và dương, vạn vật thiên nhiên và con người. Do đó, đồ ănthức uống của người Việt thường có tính năng hỗ trợ, nâng cao sức khỏe thể chất vàchữa một số ít bệnh thường thì như cảm cúm, ho, những bệnh có liên quanđến dạ dày … Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều mônkhoa học thường thức. Như vậy, hoàn toàn có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý, và tìm hiểu và khám phá về ẩm thực cho ta biết về nhiều nghành nghề dịch vụ khác thuộc về văn hóa. Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa giómùa. Chính những đặc thù văn hóa, dân tộc bản địa, khí hậu đã pháp luật những đặcđiểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa nhà hàng sử dụng rấtnhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống ; nhiều loại nước canh đặc biệt quan trọng làcanh chua, trong khi đó số lượng những món ăn có dinh dưỡng từ động vậtthường ít hơn. Những loại thịt được dùng thông dụng nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, những loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biếntừ những loại thịt ít thông dụng hơn như chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba thườngkhông phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản nổi tiếng và chỉ được sửdụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số ít món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từcác loại rau, đậu tương tuy trong hội đồng thế tục ít người ăn chay trường, chỉ có những sư sãi trong chùa hoặc người bị bệnh buộc phải ăn kiêng. Ẩm thực Việt Nam còn đặc trưng với sự trung dùng trong cách phốitrộn nguyên vật liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên vật liệu phụ gia vị để chế biến món ăn Việt Nam rất đa dạng chủng loại, gồm có nhiều loại rauthơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu ; gia vị thựcvật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non ; những gia vị lênmen như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừav. v. Các gia vị đặc trưng của những dân tộc bản địa Đông Nam Á nhiệt đới nói trênđược sử dụng một cách tương sinh hòa giải với nhau và thường thuận theonguyên lý ” âm khí và dương khí phối triển “, như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phảicó gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kỵ nhau không hề tích hợp trong mộtmón hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có năng lực gây hạicho sức khỏe thể chất cũng được dân gian đúc rút thành nhiều kinh nghiệm tay nghề lưutruyền qua nhiều thế hệ. Khi chiêm ngưỡng và thưởng thức những món ăn, đặc thù phối trộnnguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn người Việtít khi ăn món nào riêng không liên quan gì đến nhau, chiêm ngưỡng và thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thườnglà sự tổng hòa những món ăn từ đầu đến cuối bữa. Đây cũng là nền ẩm thực sử dụng liên tục nước mắm, tương, tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm và nồi cơm chung, từxưa đến nay bộc lộ tính hội đồng gắn bó của người Việt. Một đặc thù không ít cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một sốnước khác ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mụctiêu số 1 là ăn bổ. Bởi vậy trong mạng lưới hệ thống ẩm thực người Việt ít cónhững món rất là cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Nước Trung Hoa, cũngkhông thiên về bày biện có tính thẩm mỹ và nghệ thuật cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh xảo để món ăn được ngon, hoặc sửdụng những nguyên vật liệu dai, giòn chiêm ngưỡng và thưởng thức rất mê hoặc dù không thực sựbổ béo ví dụ như những món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật hoang dã . Trong trong thực tiễn nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thựcViệt Nam toát lộ trong sự đối sánh tương quan với những nền văn hóa ẩm thực khác trênthế giới món ăn Nước Trung Hoa ăn bổ thân, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ănNhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc thù này ngày càng phai nhòa vàtrở nên ít truyền thống trong thời hội nhập. Theo quan điểm của tiến sỹ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩmthực Việt Nam có 9 đặc trưng • Tính hoà đồng hay phong phú • Tính ít mỡ. • Tính đậm đà mùi vị • Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị. • Tính ngon và lành • Tính dùng đũa. • Tính hội đồng hay tính tập thể • Tính hiếu khách • Tính dọn thành mâm. Câu 3 Anh chị hãy cho biết nét độc lạ cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồmcách chế biến dụng cụ giữa mái ấm gia đình người Việt Nam và 1 mái ấm gia đình ngườiPháp giả định ? Đối với dân tộc bản địa Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa thâm thúy vàliên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong một bữa cơm của ngườiViệt và người Pháp có sự độc lạ trọn vẹn về phương pháp chế biến cũngnhư cách sắp xếp bàn ăn, cách nhà hàng … Trong bữa ăn của người Việt, người đầu bếp chủ nhà phải luôn sắp xếp saocho nguyên vật liệu vừa đủ với số lượng khách ; và những dụng cụ nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt thật sạch. Nấu món ăn nào trước, món ănnào sau phải hài hòa và hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui tươi, hứng khởi. Khi dọn ănluôn có lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì làm cho những món ăn ngonthêm bội phần. Trên bàn ăn của người Việt thức ăn đầy bàn, rất nhiều món được bày trênđĩa và trang trí rất thích mắt ; mà quan trọng nhất đó là có một nồi cơm, một tônước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi. Cácdụng cụ dùng trong bữa ăn của người Việt hầu hết là đũa, bát, đĩa, thìa. Ănuống rất lễ phép, con cháu lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhất, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng, trước khi ăn phảimời người lớn tuổi và khách … người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phânchia thời hạn và việc làm trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc nhà hàng siêu thị, đối vớingười Việt Nam, nhà hàng siêu thị có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động giải trí đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, biểu lộ trong quanniệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dùđiều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì vậy mà tất cả chúng ta kémđi lòng hào hiệp. Người Việt ý niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mờiđược nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữaăn chính là một biểu lộ cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân loại quý phái, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâmcơm, bàn ăn cũng phản ánh, bộc lộ vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong giađình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ trợ, tiếp thức ăn chomọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong mái ấm gia đình ngườiViệt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịnnhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chuẩn bắt buộcvới mỗi người Việt. Người Việt ăn rất dân chủ, trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng mọi ngườicó thể ăn những món mà họ thích, hoặc tương thích với yếu tố bảo vệ sức khỏecủa mỗi người. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của từngngười, chứ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Còn khi đến nhà người Pháp, họ có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, một khẩu phần ăn riêng cho từng người trên đĩa và sử dụng bằng dao, thìa, nĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no họcũng phải cố gắng nỗ lực ăn cho hết. Trên bàn ăn của người Pháp thường là hìnhvuông, những dụng cụ thường được dùng đó là bộ dao, nĩa và muỗng. Thức ănđược chia theo phần và thường được bày biện trên đĩa, ít được trang trí tỉ mỷnhư người Việt. Trong khi ăn, trên bàn ăn của họ luôn có những ly rượuvang để khai vị, hoặc phối hợp trong lúc ăn để cho thức ăn được tiêu hóa dễdàng hơn. Mọi người trong bữa ăn chỉ biết phần thức ăn của mình cho dùthiếu hay đủ, họ nhà hàng rất khoa học nhưng không biết cách cân đối và kếthợp về mặt âm khí và dương khí trong bữa ăn .
Danh mục Công nghệ - Môi trường ... Trang 27 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 28 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 29 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 30 Văn hóa ẩm thực Việt Nam ... Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 24 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 25 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 26 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, ... bỏ thực phẩm ướp kỹ vào tiếp tục đun nhỏ lửa thực phẩm dừ cạn nước Trang 21 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 22 Văn hóa ẩm thực Việt Nam luộc, hấp, hầm, kho Trang 23 Văn hóa ẩm... 31 819 1
câu hỏi về văn hóa ẩm thực việt nam